Đặc điểm chiếc áo bà ba
Chiếc áo bà ba là một loại trang phục phổ biến ở các miền quê miền Nam – Việt Nam. Áo bà ba còn có tên gọi khác là áo Cánh .
Áo bà ba vốn là áo không cổ. Thân áo phía sau may bằng một mảnh vải nguyên, thân trước gồm hai mảnh, ở giữa có hai dải khuy cài chạy dài từ trên xuống . Áo chít eo, xẻ tà vừa phải ở hai bên hông. Áo có độ dài trùm qua mông, gần như bó sát thân làm tôn lên những đường cong tuyệt mỹ của cơ thể người phụ nữ.
Đặc trưng của đồ bà ba ở chỗ dù chiếc áo may bằng vải ú màu đen của người nghèo hay bộ đồ may bằng satanh trắng hoặc gấm lụa thêu hoa của người giàu đều mang một tên chung là đồ bà ba.
Và những chiếc áo cùng kiểu mẫu của người Nam Đảo hay người Babas không có hẳn một bộ vận bà ba gồm các món áo bà ba tay dài (có hai túi hoặc không túi), áo trong (tay lỡ hoặc ngắn, luôn có hai túi), quần đáy nem cột dây hoặc luồn thun, khăn vuông trùm đầu, nón lá, khăn rằn.
Tương truyền thời đầu khai sinh áo bà ba có nét giống cái “áo đàn ông cổ tròn và cửa ống tay hẹp” mà Lê Quý Đôn đã quy định cho dân từ Thuận Quảng trở vào ở cuối thế kỷ 18. ( theo Wiki )
Một quan niệm khác lại cho rằng “Có thể áo bà ba ảnh hưởng, cách tân từ áo lá và áo xá xẩu may bằng vải buồm đen của người Hoa lao động, là kiểu áo cứng, xẻ giữa, cài nút thắt…
Phải chăng do thời tiết quanh năm nóng bức, họ bỏ luôn chiếc cổ thấp của áo lá và áo xá xẩu, mang thêm áo quanh chân cổ cho chắc. Áo xẻ giữa thay vì cài nút thắt đã được làm khuy, cài nút nhựa do ảnh hưởng phương Tây”.
Giả thuyết chiếc áo bà ba
Riêng áo bà ba thì có nhiều giả thuyết về nguồn gốc của nó. Chúng tôi xin giới thiệu hai quan điểm được nhiều người đồng tình nhất hiện nay.
1. Áo bà ba xuất hiện vào nửa đầu thế kỷ 19, được Trương Vĩnh Ký cách tân từ áo của người dân đảo Pénang, Malaysia (người Malaysia gốc Hoa) cho phù hợp với người Việt.
2. Theo nhà văn Sơn Nam, “Bà Ba là người Mã Lai lai Trung Hoa. Chiếc áo bà ba mà người miền Nam ưa thích, vạt ngắn không bâu chính là kiểu áo của người Bà Ba.” (Wikipedia tiếng Việt).
– Chi tiết “áo do Trương Vĩnh Ký cách tân” có thể là sai, bởi vì trong Từ điển Pháp Việt (Dictionnaire Francais-Annamite, NXB Sài Gòn 1937) của Trương Vĩnh Ký, tác giả không hề nhắc đến “áo bà ba”, như vậy làm sao do Trương Vĩnh Ký cách tân được.
– Quan điểm của nhà văn Sơn Nam có chỗ chưa đúng, bởi vì không có sắc tộc nào được gọi là người Bà Ba với nghĩa “người Mã Lai lai Trung Hoa.” Trên thực tế, chỉ có người Peranakan (Trong tiếng Malaysia và Indonesia, chữ Peranakan đều có nghĩa đen là “hậu duệ.”
Khái niệm người Peranakan có nghĩa là “hậu duệ của những người Trung Quốc đến định cư ở những vùng thuộc địa của Anh quốc ở Đông Nam Á.”), thường được gọi là Peranakan Chinese hay Baba-Nyonya, là hậu duệ của những người Trung Quốc nhập cư vào Malaysia từ thế kỷ 15 đến 17.
– Chữ “Bà Ba” rất có thể xuất phát từ chữ “baba” (“Baba” có nguồn gốc từ ngôn ngữ Hindustani, nhóm ngôn ngữ và thổ ngữ Ấn Độ, kể cả tiếng Urdu và Hindi.) trong ngôn ngữ Malaysia – một chữ vay mượn từ ngôn ngữ Ba Tư, nhưng đây là chữ dùng để gọi “người đàn ông, ông nội, ông lão, ngài,” nghĩa là dùng để chỉ nam giới chứ không phải một sắc tộc.
– Từ ghép “Baba-Nyonya” cũng không phải dùng để chỉ người Bà Ba. Đây là từ dùng để gọi chung cho người Peranakan trong tiếng Malaysia (và cả tiếng Indonesia nữa). “Baba” dùng để chỉ “đàn ông,” còn Nyonya dùng để gọi “đàn bà” ở đảo Penang thời Malaysia còn là thuộc địa của Anh quốc.
Ở Malaysia, phụ nữ Peranakan có loại áo cánh khá giống với áo bà ba, gọi là “kebaya.” Ở Indonesia, người Peranakan cũng có loại áo gần giống với áo bà ba, gọi là kebaya encim (encim có nghĩa là “phụ nữ” trong tiếng Indonesia).
Tóm lại, trong những thế kỷ trước, chiếc áo bà ba đã xuất hiện ở Việt Nam. Thông qua việc buôn bán, người Việt Nam có thể đã giao lưu văn hóa với người Peranakan, cách tân kiểu áo của họ để có được “chiếc áo bà ba.”
Chiếc áo bà ba – nét đẹp truyền thống Việt
Áo bà ba đã gắn liền trong sinh hoạt đời sống thường ngày của người Việt xưa và cả trong những năm tháng kháng chiến gian khổ của dân tộc. Hình ảnh người con gái Việt mặc áo bà ba cùng với chiếc khăn rằn đã đi vào biết bao văn thơ của nhiều nhà văn nổi tiếng.
Chiếc áo bà ba có những điểm đặc biệt rất riêng như: áo có 5 hoặc 6 nút, có hai túi ở phần dưới hai vạt trước. Ngày xưa, người ta thường dùng nút đồng hay nút xương tròn nên đơm khuy dài. Sau này, người ta thường dùng nút bằng sứ trắng hoặc màu, hay nút nhựa thì có khuy xẻ.
Vật liệu chính của áo bà ba là vải, lụa, đũi bằng tơ tằm với màu sắc phổ biến nhất là màu đen. Vào thời kì hội nhập, áo bà ba cũng có nhiều sự thay đổi như áo được may bằng vải ú, vải sơn đầm, vải chéo go đe…
Qua thời gian, bộ bà ba đã sự cải biến, cách tân để phù hợp với yêu cầu thẩm mỹ của thời đại. Tuy nhiên, những nét cơ bản như: tay dài, có hai vạt trước…vẫn được giữ lại.
Hình ảnh chiếc áo bà ba đã đi cùng người phụ nữ Việt qua bao năm tháng. Trong giai đoạn lịch sử, hình ảnh các dì, các mẹ, các anh, các chú mặc đồ bà ba, khăn rằn, nón lá vùng lên mạnh mẽ trong cuộc kháng chiến trường kì.
Hay hình ảnh nữ tướng Nguyễn Thị Định (xã Lương Hòa, huyện Giồng Trôm) vẫn còn lưu giữ ở bảo tàng với sự giản dị, gần gũi trong trang phục áo bà ba trong sinh hoạt đời thường và trong hành trình hoạt động cách mạng cứu nước.